Bí mật chuyện trấn yểm sông Tô Lịch và long mạch dòng họ Trần

“Bao giờ Tô Lịch hóa xanh – Rồng vàng xuất thế Việt Nam hùng cường”

(- Thiện Vũ Long -)

Có lẽ quý vị đã nghe qua đến chuyện Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, và để góp thêm một vài thông tin về câu chuyện long mạch đời Trần và Tây Sơn, hãy cùng chúng tôi theo dõi bài viết dưới đây:

Chuyện Trấn yểm trên sông Tô Lịch: Phàm là người phương Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, không ai mà chưa một lần được nghe về chuyện Trấn yểm. Thế nhưng, vấn đề càng trở nên bí ẩn, nửa hư nửa thực và thậm chí đã khiến không ít người phủ nhận sự tồn tại của việc Trấn yểm và coi đó là chuyện bịa đặt.

Nếu nói về các hoạt động liên quan đến Trấn yểm trong lịch sử Việt Nam, phải kể đến các truyền thuyết về Cao Biền Trấn yểm long mạch thành Đại La. Những năm trước người ta còn đào được những cái tháp đất nung đó tại khu vực Hà Nội. Tiếp theo đó là truyền thuyết về Cao Biền dùng hơn bốn tấn sắt, đồng chôn để Trấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị Thần sông Tô Lịch trú ngụ.

Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại: Sắt, đồng, vàng, bạc, Trấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa Trấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông này.

 

 

“Trấn yểm không phải là điều mê tín mà nó đã tồn tại từ thời xa xưa rồi. Nó có mối liên hệ rất chặt chẽ với khoa học hiện đại mà chúng ta cần đi sâu vào nghiên cứu, bóc tách, giải thích từng vấn đề cụ thể. Làm được như vậy, chúng ta mới xóa bỏ những mơ hồ về Tâm Linh để hướng tới thực tiễn khoa học mà Trấn yểm mang lại”

Lý giải chuyện Trấn yểm trên sông Tô Lịch và long mạch của đời Trần và thời Tây Sơn.

  1. Địa mạch Việt Nam là gì ?

Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra những dãy núi cao đóng vai trò như đường kinh mạch trọng yếu giao kết qua nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Tây Tạng, Vân Nam và Đồng bằng Bắc Bộ nước ta cũng là một phần rất quan trọng của địa mạch này.

Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như một con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì (Phú Thọ) long mạch lặn xuống và tỏa ra rồi chạy qua sông Đà rồi lại xuất hiện tại cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của Thăng Long “Núi chầu – Sông tụ”.

 

Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền Tấu Thư Kiểu Tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất.

Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi về Kỳ Môn, Địa Tướng gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí của trời đất và dễ dàng sản sinh ra nhiều hiền tài. Ông ta đã tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1671 huyệt bàng, huyệt phát quan. Nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tôn yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây dựng thành Đại La mưu đồ thực hiện mộng bá vương, nhưng đã bị vua Đường trị tội.

Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ là kết thúc với các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo vào ngày 11/09/1955 có làm cho họ thận trọng hơn.

Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, mà họ lựa chọn đi đường vòng từ phía Tây qua Lào, qua Cam Pu Chia và họ đang chiếm Bauxite Tây Nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta ?

Tinh ý, chúng ta sẽ biết. Địa mạch Việt Nam có cấu trúc Âm Dương rất hoàn chỉnh nhất khu vực Đông Nam Á. Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có Vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có Vịnh Bái Tử Long và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo liên quan đến danh từ Rồng (Long) như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng, … Cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở Đồng bằng Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại Dương thuộc Vịnh Mindanao thuộc Philippin.

  1. Bí mật đất kết nhà họ Trần.

Mãi đến đầu thế kỷ XVIII, sau gần 900 năm xảy ra sự kiện Cao Biền trấn yểm long mạch nước ta, một tài liệu của Trung Quốc với tựa đề Cao Biền Di Cảo (cùng một số cuốn sách khác trước kia như An Nam Cửu Long Kinh), nhắc đến việc Cao Biền sau khi đem 5000 quân vượt biển tiến về hướng Nam năm 865 và được chi viện thêm 7000 quân nữa vào năm 866 đã đánh chiếm nước ta và lập bàn đồng giữa trời, dùng thuật Kỳ Môn, phong thủy địa lý (Địa Tướng) lẫn những phương pháp thần bí để tầm long ráo riết.

Vậy tầm long là gì ?

Tầm long là phép tìm kiếm long mạch theo thế đất, hình thái sông núi, địa mạch như cụ Tả Ao chỉ rõ “Chẳng qua ra đến ngoài đồng/ Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường” và trong sách địa lý của cụ Tả Ao có giải thích đại ý dưới đây:

Long mạch là mạch đất bên trong có chứa khí mạch, giống như trong cành cây có chứa nhựa sống của cây, nó có thể chạy qua những dãy đồi núi cao, cũng có thể đi rất thấp, luồn qua sông qua suối, thậm chí qua biển, rồi đột ngột nhô lên với những thớ đất lắm khi uốn lượn sà sà trên mặt ruộng như hình dáng con rồng đang cuộn mình vươn tới để ôm chầu vào một huyệt đất nào đó (Long Nhập Thủ).

Điểm huyệt là phép dựa vào sự tìm kiếm theo long mạch ngoài đất trống, nơi đó có thể hạ huyệt chôn cất hoặc cải táng mồ mả cha ông để con cháu đời sau phát vương, phát tướng, phát trạng, phát tài lộc phú quý.

Trước huyệt kết có đất nổi lên cao che chắn (gọi là án), hoặc có gò bao quanh kết hình kiếm, ngựa voi, chiêng trống (gọi là sa).

“Tả Ao địa lý toàn thư” ghi rõ muốn tầm long cần phải biết: Thái tổ sơn của toàn thể các cuộc đất xuất phát từ đâu (Dãy Himalaya), phải biết Minh Đường nơi nước tụ trước huyệt để nuôi dưỡng linh khí, biết Thanh Long là thớ đất bên trái huyệt, Bạch hổ là thớ đất bên phải huyệt, cả hai ôm chầu vào huyệt kết, phải biết long sinh (mạch sống động như mãng xà vương đang lao tới), long tử (mạch nằm ngay đơ như chiếc đũa tre), long cường (mạch nổi to như sóng lớn), long nhược (mạch lặng như sóng nhỏ lăn tăn).

Những điều trên chắc hẳn Cao Biền đã ứng dụng trong cuộc “tầm long” trên toàn cõi đất nước ta để Trấn yểm những đất phát vương của 12 đời vua Trần (chưa kể thêm đời hậu Trần) đã tồn tại vượt qua ý đồ của Cao Biền. Đó là vùng đất ở nguồn sông Phổ Đà, tức sông Luộc, nằm trên địa phận thôn Lưu Gia (nay thuộc huyện Hưng hà, tỉnh Thái Bình ngày nay).

  • Phát vương trên đất kết:

Đến với vùng đất đó buổi sơ khai có 3 anh em nhà họ Lưu, gồm: Lưu Khánh Đàm, Lưu Ba, Lưu Lượng. Về sau, cả ba người đều làm quan, trong đó có Lưu Khánh Đàm được vua Lý Nhân Tông trọng dụng (Khi vua sắp mất vào tháng chạp năm Đinh Mùi 1127 đã cho gọi Đàm vào nhận di chiếu để cùng Lê Bá Ngọc đưa Hoàng Thái Tử là Lý Thần Tông lên ngôi trước linh cữu). Tên tuổi của Lưu Khánh Đàm và Lưu Ba đều được Ngô Sĩ Liên nhắc đến trong “Đại Việt Sử Ký Toàn Thư”.

Đó là dòng họ thứ nhất tìm đến cư ngụ tại vùng đất phong thủy bảo địa này ở nguồn sông Luộc. Dòng họ thứ hai đến với đất phát vương là nhà họ Tô chuyên buôn tơ lụa, giàu có nhất nhì trong vùng. Nhưng cả hai họ Lưu và họ Tô cũng chỉ dừng lại ở mức quý tộc, cự phú, chứ không phát vương được. Mà phải đợi đến họ Trần xuất hiện thì “đất kết” mới ứng lên một dòng vương giả mới bắt đầu từ sự có mặt của một người đến từ hương Tức Mặc, xứ Hải Thanh, đó là Trần Hấp.

Trần Hấp sinh được 2 người con trai là Trần Lý (Lý là cá chép) và Trần Thiện. Trần Lý lớn lên kết hôn với Tô Thị Hiền 15 tuổi, thế là hai họ Trần và Tô kết sui gia và tạo thành thế lực mạnh nhất trong vùng. Trần Lý có người bạn họ Phùng rất giỏi về khoa Địa Lý, được dân chúng kính nể, thường gọi là “Thầy Phùng”.

Ông là người biết rõ kiểu đất “hậu sinh phát đế” ở thôn Lưu Gia, mà Tiến sĩ Đinh Công Vĩ đã ghi lại trong cuốn “Chuyện tình vua chúa hoàng tộc Việt Nam” khá thuyết phục như sau: Ba mũi nhọn chồng lên nhau này là núi Tam Đảo với ba ngọn núi Phù Nghĩa, Thạch Bàn, Thiên Thị. Đấy là Tổ sơn, long mạch của nó chạy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, thấp dần rồi chìm qua sông Thiên Đức (tức sông Đuống), đến làng Hà Liễu của châu Đằng mới đột khởi nổi lên một ngọn núi khác.

Rồi từ đấy, long mạch lại chạy tiếp từ làng Nhật Cảo đến làng Thái Đường, kết lại ở gò Sao. Phía sau gò ấy có ba gò lớn gọi là Tam Thai, phía sau có bảy gò nhỏ là Thất Tinh, xung quanh có đầm nước bao bọc, khi mặt trời soi tới thì mặt đầm sáng như gương phản chiếu, đối mặt với các cù lao nhỏ hình đẹp như những bông sen đang nở, đấy là một trong 27 kiểu đất kết “hậu sinh phát đế”.

Khi phát hiện ra chỗ đất kết, thầy Phùng đã bàn với Trần Lý nên cải táng mộ Ông, Bà của họ Trần về chôn ở đó. Vì sao thầy Phùng lại không thể dùng chỗ đất kết để chôn ông bà mình ? – Theo thầy và nhiều vị địa sư các đời khác đều có một ý chung đó là người tìm ra long mạch và chỗ huyệt kết chưa hẳn là người có thể cải táng thân nhân của mình để con cháu phát vương được, vì cần phải ứng đúng số mệnh nữa.

Thầy Phùng biết họ Trần sắp phát và đã kể lại chi tiết bí mật liên quan đến chuyện phong thủy ở gò Sao cho con mình là Phùng Tá Chu (cũng là một nhân vật lịch sử) được biết: Vào ngày lập thu, mộ hiển thủy tổ khảo ở Tức Mặc và hiển thủy tổ tỷ ở Lưu Gia của dòng họ Trần đã dời chuyển đến gò Sao song táng, công việc hoàn tất đúng giờ chính Hợi.

Những người tham gia rà soát các vị trí và hình thể của long mạch lần cuối để đặt la bàn xác định nơi hạ huyệt cũng như hướng cải táng đều là người họ Trần. Chỉ duy nhất có thầy Phùng là người khác họ. Xong việc, bên trên mộ được san phẳng y như cũ để không lộ ra dấu vết.

Vào giữa đêm trăng rằm, Thái tử Sảm (tức vua Lý Huệ Tông sau này) từ Thăng Long chạy loạn đến vùng Lưu Gia đã tình cờ trông thấy và nhanh chóng say mê cô con gái xinh đẹp của Trần Lý là Trần Thị Dung, lúc đó mới 15 tuổi (là chị em chú bác ruột với Trần Thủ Độ), rồi cưới Dung. Đây là sự kiện mở đầu cho một loạt biến cố tiếp theo để vương quyền nhà Lý chuyển sang tay nhà Trần.

  1. Vì sao Vua Quang Trung không thay đổi được Long Mạch ?

Theo truyền thuyết, vì bị gián điệp của Nguyễn Ánh xúi dại, 3 anh em nhà Tây Sơn đã đào sông làm phá hỏng long mạch của huyệt đất kết nhà mình.

Giữa thế kỷ XVIII, ba anh em nhà Tây Sơn nổi lên cuộc khởi nghĩa. Chỉ trong thời gian ngắn đã đánh tan các thế lực cát cứ phân chia đất nước thành Đàng Trong và Đàng Ngoài rồi lại đánh tan 5 vạn quân Xiêm và hơn 20 vạn quân Thanh lăm le nhòm ngó. Nhưng ngay sau chiến công hiển hách một thời gian cũng rất ngắn thì sự nghiệp nhà Tây Sơn tuột dốc sau cái chết đột ngột của Vua Quang Trung.

Sự kết thúc mau chóng của một triều đại có công chống ngoại xâm hiển hách như vậy đã khiến cho nhiều người nuối tiếc. Bởi thế trong dân gian đã phát sinh nhiều truyền thuyết để giải thích sự việc đó. Một trong những truyền thuyết như vậy là đi tìm về lý luận phong thủy để giải thích.

Một truyền thuyết kể rằng triều Tây Sơn có một viên quan tên là Trần Huy Đống tinh thông phong thủy địa lý, tương truyền là cháu ngoại thánh địa lý Tả Ảo, và là tác giả của bộ “Địa cơ bí lục”.

Nghe Trần Huy Đống tinh thông Địa Tướng, vua Quang Trung đã cho mời ông xem hai ngôi mộ (Song táng) trên núi Một, xã Hoành Sơn, Bình Khê. Xem xét kỹ địa hình, Đống biết đây là kiểu đất (Sư Tử Ngủ) rất quý nhưng đã bị ba con rồng: Đà Hằng, La Dĩ, Cửa Tiền triệt phá. Những con sông là do trước đó Ngô Nhân Tịnh (gián điếp của Nguyễn Ánh và bọn thầy địa lý Tàu) đã xui khiến ba anh em nhà Tây Sơn đào.

Trần Huy Đống xem xong than tiếc nói rằng: Nếu ba con sông đào chậm lại một Giáp thì Quang Trung không những là đế nước Nam mà còn làm chủ Bắc quốc. Người này sẽ chẳng khác gì Nỗ Nhĩ Cáp Xích, gốc Kim, 200 năm trước đã có được kiểu đất “Cửu long tranh châu” ở Kiến Châu nên đã bình được bốn bộ phía Bắc, diệt nhà Minh, làm chủ Trung Nguyên lập ra nhà Thanh.

Vua hỏi Đống: Kiểu đất sư tử ngủ dậy sớm là không tốt ?

Đống nói: Kiểu đất này dậy sớm như hoa nở bị thúc ép, có nở nhưng mau tàn. Nếu nó càng dậy muộn thì càng phát lớn, sau đấy Đống khuyên nhà vua bỏ ý định cầu hôn cũng như việc đòi lại đất Lưỡng Quảng.

Vua Quang Trung gạn hỏi lý do thì Đống tâu thật: Kiểu đất bị cả ba con sông triệt phá, con sư tử bị cả ba dòng nước tạt vào mặt đã dậy sớm hơn kỳ hạn hai giáp. Nó có thể làm giảm tuổi thọ của người hưởng phúc địa, gia cảnh bất hòa, bất mục, huynh đệ tương tàn. Nếu đòi đất, cầu hôn, sẽ gây thêm hiềm khích với cường bang, trong ngoài đều có thù địch thì làm sao chống nổi. Việc này nhà vua làm ngày nào sẽ gây nên hậu quả chẳng lành ngày đó.

Nghe Đống nói, Quang Trung bán tín bán nghi hỏi có cách nào hóa giải được ba con sông ? Đống tâu lại: Chỉ riêng con sông Đà Hằng cũng đủ làm hư huyệt khí, chứ chưa kể đến hai con sông đào sau. Nay có lấp cả ba con sông, hàn được thổ địa thì cũng không sao cứu vãn nổi. Bởi lẽ con sư tử đã thức, không thể ngủ lại như trước. Nó đã bị ba con sông làm gián đoạn long mạch, tiêu tan tú khí tụ hội.

Quang Trung lại hỏi: Ta có thể di táng hai ngôi mộ đến một kiểu đất quý khách được không ? Đống trả lời: Thưa bệ hạ, đất có tuần, dân có vận, đất quý không bao giờ kết phát 2 tuần, đời người không ai có được vận quý đến 2 lần.

Nếu không vua chúa các đời trước làm chủ các vùng đất quý, khi thấy triều đại suy vong, liền chuyển mồ mả đến vùng đất quý khác, như thế thì một dòng họ có thể làm vua hoài không dứt…

Sau đó vào năm 1792, vua Quang Trung sai sứ sang Tàu cầu hôn, đòi đất.

Lúc này Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân nhớ lại lời can của Đống, khuyên vua từ bỏ ý định, nhưng vua không nghe mà nói: Ta muốn dò ý, thử lòng Thanh quốc, chứ không chủ tâm gây chiến, ắt không dẫn đến can qua. Tiếc thay sứ bộ vừa đến Lạng Sơn thì hay tin dữ nhà vua đột ngột băng hà, sứ giả liền phải vội vã quay về.

Khí thiêng còn phụ thuộc vào vận số, lời nói của Trần Huy Đống ở trên, ngoài việc nói thẳng rằng đất quý đã hỏng thì khó sửa chữa còn cho thấy một điều nữa đó là khí thiêng (tức đất kết) còn phải phụ thuộc vào cơ trời, nếu cơ trời đã định thì con người chỉ có cách tu nhân tích đức mới mong hoán cải được, ngoài ra không thể có biện pháp kỹ thuật nào thay đổi được.

Ngay trong tài liệu “Tầm long gia truyền bảo đàm”, cụ thánh địa lý Tả Ao cũng đã nói rõ: “Trước là tích đức, sau là tầm long” để chỉ rõ cái ý rằng: Nhà không có phúc đức lớn thì dù có được đất quý cũng khó phát vinh hiển lâu dài.

Trong lịch sử trước thời Tây Sơn cũng đã có trường hợp biết rõ cơ trời, khi được huyệt đất quý nhưng cũng không sửa được nhược điểm, đó chính là trường hợp long mạch của nhà Hậu Lê.

Theo sách “Lam Sơn Thực Lục”, vua Lê Lợi khi chưa nên nghiệp đế có lần ở quê hương có duyên gặp nhà sư họ Trịnh tên Sư Sơn Bạch Thạch “Tu ở núi đá trắng”. Nhà vua thấy ông sư than rằng “quý hóa thay phiến đất này ! Không có ai đáng dặn !” nên bèn đi theo hỏi rằng: “ Miền đất của đệ tử tôi, sang hèn thế nào xin sư chỉ bảo dùm”.

Nhà sư nói: “Sứ phất hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía sau có núi Thái Nhất, Núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang), bên trong có đồi đất bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ làm chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ, bên ngoài núi xâu chuỗi như hạt trai.

Con trai sang không thể nói hết, nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau có thể phân cư, ngôi vua lúc trung hưng. Mệnh trời có thể biết vậy, nếu thầy giỏi biết lán lại, thì trung hưng 500 năm.

Sau khi nghe nhà sư nói vậy, Lê Lợi bèn đem hài cốt của cha mình táng vào đó. Lịch sử sau này cho thấy rõ triều Hậu Lê từ năm 1482 khi vua Lê Lợi lên ngôi đến năm 1527 khi Mạc Đăng Dung soán ngôi là được quãng 100 năm. Sau đó nhờ công thần Nguyễn Kim phù trợ nên lại được trung hưng, điều đó là ứng vào câu “ngôi vua có lúc trung hưng”.

Như vậy vua Lê Lợi đã biết từ đầu rằng long mạch nhà mình như vậy thì triều đại của dòng họ mình sẽ có lúc sóng gió giữa chừng, tuy vậy nhà vua cũng không thể nào thay đổi được điều đó, âu đó cũng là cơ trời đã định vậy.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Hotline: 0924 8888 64
Liên Hệ Chúng Tôi Nhắn tin Facebook Zalo: 0342383368